Ứng dụng công nghệ trong truy vết COVID-19
Tin tức
Chính phủ các nước phải đặt lên “bàn cân” giữa việc dùng công nghệ để hỗ trợ truy vết và nguy cơ xâm phạm quyền riêng tư.
Sau khi phát hiện một ca nhiễm, các chuyên gia y tế sẽ phải xác định hành trình di chuyển của bệnh nhân trong 14 ngày trước đó để tìm ra những người từng tiếp xúc với ca này. Tuy nhiên, không phải người nhiễm COVID-19 nào cũng có thể nhớ hết được trong hai tuần họ đã đi những đâu, gặp những ai và trong thời gian cụ thể nào. Bên cạnh đó, việc truy vết này cũng dẫn đến tình trạng một vài người nhiễm là cả khu phố, cả xã bị cách ly.
Lúc này, công nghệ được nhận định có thể “chung tay” giảm tải cho hệ thống y tế khi người dân trở lại cuộc sống bình thường. Việc sử dụng dữ liệu smartphone để xác định bạn có tiếp xúc gần với một ca nhiễm COVID-19 nào hay không nghe có vẻ hấp dẫn. Tuy nhiên, một vấn đề được đặt ra là quyền riêng tư.
Trung Quốc là một trong những quốc gia rất nhanh nhạy trong việc thử nghiệm các giải pháp truy vết kỹ thuật số. Các hãng công nghệ của nước này đã xây dựng ứng dụng theo dõi dựa trên mã QR ngay từ giai đoạn đầu của COVID-19. Mỗi khi tới khu vực công cộng, người dân phải quét mã QR, nhờ đó chính quyền sẽ theo dõi được lộ trình di chuyển của họ. Khi có một ai đó được phát hiện dương tính với COVID-19, chính quyền nhanh chóng có được lịch sử di chuyển của bệnh nhân đồng thời xác định họ từng tiếp xúc với những ai.
Bên cạnh đó, thông qua mạng lưới camera rộng khắp và công nghệ nhận diện khuôn mặt đi kèm, hệ thống giám sát có thể phát hiện một người từng đến những địa điểm nào, tiếp xúc với ai, thời gian bao lâu… kể cả khi họ mang khẩu trang, từ đó đưa ra phương án cách ly.
Một số quốc gia khác, như Hàn Quốc và Israel, truy tìm người tiếp xúc gần bằng cách theo dõi vị trí người dùng qua kết nối mạng di động.
Tuy nhiên, các biện pháp trên không thể áp dụng tại Mỹ và một số nước vì được cho là xâm phạm sự riêng tư, chưa kể sai số lớn.
Một trong những phương án được đánh giá là có thể dung hoà giữa khả năng truy vết và đảm bảo sự riêng tư là ứng dụng truy vết qua Bluetooth, được nhiều nước lựa chọn, nhất là sau khi có sự tham gia phát triển của Apple và Google.
Ứng dụng truy vết khai thác công nghệ định vị Bluetooth năng lượng thấp, trao đổi tín hiệu với các smartphone cùng cài ứng dụng trong khoảng cách hai mét và lưu lại nhật ký tiếp xúc. Khi xuất hiện một ca nhiễm COVID-19 mới, lịch sử tiếp xúc của người bệnh sẽ được gửi tới các smartphone để đối chiếu. Nếu trùng khớp, người dùng sẽ nhận được cảnh báo về nguy cơ lây nhiễm. Hồ sơ về lịch sử tiếp xúc được mã hoá và lưu trữ cục bộ trên điện thoại, không chuyển lên hệ thống cũng như không đòi hỏi danh tính, không thu thập vị trí của người dùng.
Về mặt lý thuyết, truy vết qua Bluetooth được đánh giá là chính xác nhất trong số các công nghệ đo khoảng cách hiện nay. Nó cũng đảm bảo sự riêng tư hơn so với mã QR hay GPS, nhưng lại gây băn khoăn về tính hiệu quả.
Công nghệ này chỉ hữu dụng nếu đạt được số người dùng đủ lớn. Đại học Oxford ước tính, lượng cài đặt phải ở mức 60% dân số trưởng thành mới đạt hiệu quả kiểm dịch tối ưu. Không như một số nước châu Á có thể áp dụng biện pháp “cưỡng chế”, không có cách nào đòi hỏi người dân Mỹ cài ứng dụng, nên các chuyên gia cũng khó xác định khi nào ứng dụng mới đạt được tỷ lệ cần thiết.
Gần 60% người Mỹ tham gia khảo sát của Đại học Maryland hồi tháng 4 khẳng định sẽ không sử dụng hệ thống do Apple và Google phát triển. Trong khi đó, tính đến tháng 8, người dân của 20 bang, chiếm khoảng 45% dân số Mỹ, đã tiếp cận ứng dụng truy vết COVID-19 dựa trên công nghệ của Google và Apple.
Bên cạnh đó, ứng dụng truy vết còn có thể gây ra những cảnh báo giả, như coi hai người đứng cách nhau một bức tường là “tiếp xúc gần”. Để hạn chế cảnh báo giả, ứng dụng chỉ ghi nhận những trường hợp tiếp xúc diễn ra trong ít nhất vài phút. Nhưng ngược lại, việc thiết lập thời gian như vậy lại có nguy cơ bỏ sót trường hợp phơi nhiễm, như một cái hắt hơi nơi công cộng đủ phát tán một lượng lớn virus chỉ trong vài giây.
Về lo ngại xâm phạm quyền riêng tư, chuyên gia công nghệ Beth Noveck ở New Jersey chia sẻ trên Washington Post rằng thực tế, đã có rất nhiều công ty đang thu thập dữ liệu về người dùng mà họ không hề hay biết. Bên cạnh đó, một số chuyên gia nhận định, trong tình thế tiến thoái lưỡng nan như hiện nay, nếu việc thu thập dữ liệu được sử dụng cho mục đích tốt, hỗ trợ phòng chống đại dịch thì cũng phần nào chấp nhận được trong “giai đoạn đặc biệt” này.
Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là, khi tình trạng khẩn cấp kết thúc, hệ thống theo dõi được đưa ra để phòng chống dịch sẽ tiếp tục được khai thác ra sao. Nhiều người lo ngại, một khi những công cụ giám sát như nhận diện gương mặt hay theo dõi địa điểm được triển khai rồi, chúng ít có khả năng được thu hồi nếu hoàn thành nhiệm vụ ban đầu.